Tìm địa điểm nuôi: nơi cao ráo, xa khu dân cư, tiếng ồn, gần nguồn cấp nước chất lượng tốt như pH 6,5 – 8, ôxy > 2 mg/l, nhiệt độ trại nuôi 25 – 32oC. Hệ thống nuôi tốt nhất là nuôi lươn tuần hoàn trong bể composite, hay lót bạt (kích cỡ trung bình 6m x 3m x 1m), nên thiết kế từ một bể bạt trở lên tùy thuộc vào quy mô nông hộ, tốt nhất có thể là 4 – 8 bể bạt. Khối hệ thống nuôi nên che mát trọn vẹn bởi mái che bằng tôn hay bạt. Bể với hệ thống thoát nước đường kính 60 – 90 milimet, đáy có độ nghiêng khoảng 5% về phía cống thoát. Ống cấp nước với đường kích 60 milimet.
Giá thể cho lươn trú ẩn có 2 dạng: có thể sử dụng dây nylon bó thành chùm thả xuống bể bạt nuôi từ đầu tới lúc thu hoạch, mỗi bể với 5 – 10 chùm dây (khuyến nghị nên sử dụng hình thức này). Một dạng khác là là sử dụng dây nylon giai đoạn lươn nhỏ đến 10 – 20 g/con, rồi dùng giá thể là khung tre, ống vật liệu bằng nhựa, hay khung dây (3 khung/bể, mỗi khung cách nhau 5 – 10 centimet, {khoảng cách} ống, tre, dây trong khung cách nhau 2 – 5 centimet).
Sử dụng nước sông bơm vào ao lắng trước lúc cấp vào khối hệ thống nuôi tối thiểu 7 – 10 ngày. Ao lắng nên thả thêm lục bình để và trong và nhiệt độ duy trì ở mức thấp. Ao lắng hạn chế hoặc không thả cá.
Trường hợp sử dụng nước giếng để nuôi lươn; nguồn nước giếng phải được kiểm tra mức độ an toàn như không nhiễm phèn, thành phần hóa chất độc hại, nên bơm trước vào bể chứa và xử lý tối thiểu 24 giờ qua hệ thống lọc bằng giá thể, than hoạt tính… trước lúc cấp vào khối hệ thống nuôi. Mức nước trong bể nuôi lươn được điều chỉnh tùy giai đoạn phát triển, và loại giá thể sử dụng; bình thường mức nước được duy trì từ 10 – 40cm.
Do là hình thức nuôi thâm canh cho nên việc thay nước phải được quan tâm nghiêm ngặt; không nên thay đổi đột ngột nguồn nước cấp. Nước trong bể lươn được thay hoàn toàn cho từng lần thay nước. Giai đoạn nhỏ dưới 50g/con thay nước 1 lần/ngày, giai đoạn trên 50g/con thay 2 – 3 lần/ngày.
Nên tìm con giống đồng cỡ khỏe mạnh, không bệnh, không xây sát… Cỡ giống thả dựa vào kinh nghiệm và tùy theo điều kiện nuôi, bình thường 50 – 500 con/kg. Tốt nhất là 80 – 150 con/kg. Tỷ lệ thả nuôi tùy cỡ, tuy nhiên dao động 80 – 200 con/m2. Lúc vận chuyển lươn giống phải ngưng cho ăn tối thiểu 1 ngày, vận chuyển bằng thùng xốp hở, hoặc túi nylon có ôxy với tỷ lệ 1 nước 1 lươn. Trước lúc thả nên tắm lươn bởi iodine, hoặc thuốc tím pha loãng với nồng độ 2 – 5 ppm trong 5 phút. Sau khi thả 2 ngày mới bắt đầu khởi động cho lươn ăn.
Hiện nay, nuôi lươn không bùn sở hữu 2 hình thức cho ăn là cho ăn thức ăn viên hoàn toàn và thức ăn chế biến gồm cá tạp xay + thức ăn viên, tuy nhiên thức ăn chế biến thường không chủ động nguồn cá tạp rất tốn công xay, bảo quản, thay nước… Lời khuyên người nuôi, nên sử dụng thức ăn viên hoàn toàn. Cỡ viên 1 – 3 milimet tùy cỡ miệng lươn, hàm lượng đạm 40 – 50%. Ngày cho ăn 2 lần (sáng 8 giờ, chiều 17 giờ), có điều kiện nên thay nước trước và sau khi ăn. Khẩu phần thức ăn viên mỗi ngày tùy theo cỡ lươn nên 1 – 2% khối lượng đàn lươn. Chú ý, lươn sẽ hạn chế hay không thích ăn lúc thay đổi thức ăn đột ngột.
Do lươn có tập tăng trưởng không đều nhau nên tính phân đàn lớn kéo theo chênh lệch kích thước, hoàn toàn có thể xẩy ra hiện tượng ăn lẫn nhau. Để giải quyết và xử lý vấn đề này, nên định kỳ sau thời hạn nuôi 1 – 1,5 tháng nên phân cỡ lươn ra nuôi riêng để tránh lươn hụt do tấn công lẫn nhau, góp thêm phần tăng năng suất.
Dọn dẹp vệ sinh bể bạt, giá thể trước và trong giai đoạn nuôi như mỗi ngày dội rửa sạch sẽ bể, giá thể. Định kỳ 7 – 10 ngày, sử dụng thuốc sát khuẩn như thuốc tím, iod tạt vào nước với liều lượng 0,5 – 1 ppm. Định kỳ sử dụng Vitamin C, men tiêu hóa, tỏi… xổ giun lãi cho lươn. Hạn chế tối đa thay đổi thức ăn và nguồn nước cấp, nếu có phải đổi từ từ.
Nếu thả lươn cỡ 100 con/kg sau thời hạn nuôi 8 – 10 tháng hoàn toàn có thể thu hoạch với kích tầm trung bình 150g/con. Năng suất 12 – 15 kg/m2.