Nghề nuôi tôm chân trắng đã trở thành một nghề mang lại nguồn thu nhập nhập cho những người dân ven biển khu vực miền Bắc, sau khi đối tượng này được cho phép nuôi ở Việt Nam. Theo quy hoạch của các tỉnh miền Bắc, diện tích S nuôi tôm thẻ chân trắng sẽ không tăng lên sau năm 2030, trong khi mục tiêu sản lượng vẫn tăng lên. Đấy là thử thách lớn đối với khu vực miền Bắc, đòi hỏi sự chuyển đổi hình thức nuôi sang thâm canh và quy trình giải pháp công nghệ nuôi mới, tăng lên cả số vụ nuôi lẫn năng suất nuôi 1 cách vững chắc. 1 trong những giải pháp đang được Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu và thử nghiệm là ương nuôi tôm trong nhà (ISPS)
Hệ thống nhà che tôm
Như chúng ta đã biết, tôm là loài vật rất nhạy cảm với thời tiết và dễ mắc phải dịch bệnh. Đặc biệt trong giai đoạn đầu mới thả. Việc nuôi trong nhà che tôm sẽ đảm bảo tôm có thể khoẻ mạnh và ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của vụ nuôi.
Nhà che tôm còn có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai, mưa bão xảy ra. Đây là một trong những ưu điểm được các chủ đầu tư hài lòng nhất khi ứng dụng nhà che tôm trong quá trình nuôi tôm.
Bên cạnh việc kiểm soát được các ảnh hưởng của thời tiết, dịch bệnh thì nuôi tôm trong nhà còn mang đến cho người nuôi sự chủ động để điều chỉnh thời điểm thả giống. Nếu như nuôi ở hồ bạt không thể thả giống được vào mùa đông thì nuôi trong hệ thống nhà che tôm có thể sản xuất, nuôi trồng được quanh năm. Người nuôi có thể điều chỉnh được nhiệt độ phù hợp nhất cho quá trình sinh trưởng của tôm.
Chuẩn bị hệ thống và nước
Trước lúc thả con giống 7-10 ngày, sẵn sàng bể 80 m3. Cọ bể bằng búi chà và xà phòng. Tráng lại bể bằng nước axit oxalic. Chuẩn bị dây khí và quả đá khí. Sẵn sàng bể lọc sinh học với giá thể hạt vật liệu nhựa MBBR. Rửa những đồ dùng này bằng axit oxalic. Chuẩn bị máy thổi khí, bình oxy, máy tạo vi bọt khí, đèn UV.
Nước được bơm qua bể lọc cát ngầm. Diệt khuẩn liều 30 ppm chlorine, tiếp sau đó 24h, trung hòa bằng natri thiosulfat. Sử dụng test kit để kiểm tra dư lượng chlorine. Chạy khối hệ thống tuần hoàn. Bổ sung cập nhật vi sinh Bacillus spp. sau khi đã tăng sinh với đường kính trắng hoặc mật rỉ 12-24h. Bổ sung 10 L EM và 10 L vi khuẩn tía vào bể lọc sinh học. Bổ sung 20 L tảo silic vào buổi sáng trước ngày nhận giống nếu có.
Vi khuẩn Bacillus spp. được nhân sinh khối như sau: 200 L thùng phuy vật liệu nhựa, 150L nước sạch, 10L mật rỉ đường kính trắng, 500 g chế phẩm, 20-50 g men bánh mỳ, 30-100 g vitamin+khoáng. Hoàn toàn có thể bổ sung 500 mL nước dứa ép nếu có. Chế phẩm EM và vi khuẩn tía được nhân sinh khối như sau: 200L thùng phuy vật liệu nhựa, 190 L nước, 5 L mật rỉ đường kính trắng, 10L EM1 và 10L vi khuẩn tía và 100 g men bánh mỳ, 30 g vitamin + khoáng. Có thể bổ sung 50 g thức ăn hoặc bột cá.
Tôm giống
Tôm giống với nguồn gốc và được kiểm tra sạch một vài bệnh. Tôm giống được nhận xét chất lượng theo các chỉ tiêu cảm quan, màu sắc, chiều dài thân, trạng thái sinh hoạt, ruột, và sốc ngọt. Trước lúc thả con giống, tạt vitamin C vào bể để tránh stress cho tôm. Sau khi ngâm túi tôm giống trong bể 20 phút – 30 phút để nhiệt độ nước trong túi tôm cân bằng với nhiệt độ nước bể thì hoàn toàn có thể thả tôm giống. Lượng tôm giống là 20 – 22 vạn/bể.
Thức ăn và quản lý thức ăn
Trong 10-15 ngày đầu tiên, thức ăn được sử dụng là thức ăn cao đạm dạng bột, vảy và bột krill (ví dụ: Lansy Shrimp PL, P. Japonicus, Krillflakes). Cho ăn 4 bữa/ngày vào lúc 6, 10, 14, và 18 giờ. Artemia bung dù được cho ăn ngay sau lúc cho ăn thức ăn công nghiệp 20 phút – 30 phút để tôm nhỏ có thể bắt mồi. Ban đầu cho ăn thức ăn tổng hợp 0,5 kg/bữa/bể. Sau 1-2 tiếng mỗi bữa, kiểm tra lượng thức ăn thừa bên trên lưới lọc và ra quyết định tăng hay hạn chế lượng thức ăn (mỗi lần thay đổi 5% khối lượng thức ăn bữa trước). Sau 10-15 ngày, bắt đầu sử dụng thức ăn Grobest số 01 và ngưng sử dụng artemia bung dù. Thức ăn này được ủ trước với hỗn hợp EM, vi khuẩn tía, nấm men, và thảo dược bổ gan (5-20mL/100g thức ăn) trong 12-24h. Chú ý vẫn cho ăn kèm thức ăn cao đạm với thức ăn số 01. Tỉ lệ giữa thức ăn cao đạm và thức ăn số 01 giảm dần từ 9:1 tới 1:9. Sau khi thấy tổng thể tôm có thể ăn thức ăn số 01 thì dừng cho ăn thức ăn cao đạm.
Quản lý môi trường nước
Những chỉ tiêu độ mặn, nhiệt độ và oxy hòa tan được đo mỗi ngày và chỉ tiêu pH được đo 2 lần/ngày bằng máy đo các nhân tố môi trường đa năng Aqua TROLL 500 (In-situ, Mỹ). Những chỉ tiêu kiềm, tổng ammonia (TAN) và NO2 được đo 3 ngày/lần bởi kit Sera. Những chỉ tiêu Mg và Ca được đo 7 ngày/lần bởi kit Sera. Khối hệ thống sục khí và nâng oxy được chạy 24/24h, duy trì DO > 6ppm. Vi khuẩn có lợi được bổ sung cập nhật với hai loại yếm khí và hiếu khí. Vi khuẩn hiếu khí dạng bột được sục khí trong nước biển lọc trong 24h trước lúc sử dụng với lượng 50g/ngày (chứa những chủng Bacillus spp với lượng tối thiểu 1×109 cfu/g). Chế phẩm vi sinh yếm khí dạng lỏng (EM, vi khuẩn tía, men bánh mỳ) được bổ sung cập nhật trực tiếp mỗi ngày với lượng 10-20 L/ngày. Khoáng được bổ sung định kỳ 2 ngày/lần với lượng 0,1-0,5 kg/ngày, tăng lên dần theo thời gian.
THAY ĐỔI ĐỘ KIỀM TRONG BỂ ƯƠNG TÔM TRONG NHÀ
Hàng ngày kiểm tra độ kiềm trong ao nuôi bằng test, rồi từ đó có thể tận dụng lượng khoáng tổng hợp cho phù hợp. Độ kiềm nội địa được duy trì trong khoảng chừng 100 -160 ppm. Tạt khoáng lúc tối khoảng 20h liều lượng 0,01-0,15kg/1m3 nước. Khoáng tổng hợp này gồm 2 loại :
- Loại 1: gồm những hợp chất của Mg2+, Ca2+, K+, để tôm rất có thể tận dụng khoáng vật này cho đời sống sinh trưởng và trở nên tân tiến của bản thân mình. Nhanh chóng tái tạo lại lớp vỏ chitin sau lúc tôm lột xác.
- Loại 2: gồm với 2 loại SODA nóng và rét mướt, để nâng độ kiềm.
TỰ ĐIỀU CHỈNH PH TRONG NƯỚC
Như kiềm, pH được kiểm tra mỗi ngày và được kiểm soát trong ngưỡng tương thích từ 7-8. Sau lúc sử dụng khoáng pH sẽ có sự biến động tăng dần, nên sau khi đánh khoáng thì bổ sung cập nhật thêm vi khuẩn Bacillus spp. Vào buổi tối để cân bằng lại pH trong nước.
ĐIỀU CHỈNH NH3/NH4, NO2
NH3 và NO2 là 2 loại khí gây độc cho tôm trong bể ương nên phải được quản lý nghiêm ngặt. Duy trì TAN < 1 ppm và NO2 < 0,5 ppm. Hai khí này chủ yếu được sinh ra từ chất thải của tôm lắng xuống nền đáy và tạo thành, một phần cũng do những sinh vật chết lắng xuống đáy và tạo thành. Hàm lượng khí độc NH3/NH4 và NO2 biến động không nhiều lúc được sử dụng vi sinh mỗi ngày. Vi sinh thường được sử dụng trong quy trình này là Bacillus spp. Từ gói chế phẩm, EM và vi khuẩn tía Rhodobacter spp., Rhodopseudomonas spp. Được nhân từ EM gốc và vi khuẩn tía gốc. Tăng lên liều sử dụng vi sinh gấp hai nếu TAN và NO2 có dấu hiệu tăng.
QUẢN LÝ VIBRIO TỔNG SỐ VÀ V. PARAHAEMOLYTICUS TRONG NƯỚC BỂ/AO ƯƠNG TÔM TRONG NHÀ
Phương pháp thu mẫu nước được tiến hành theo TCVN 5998:1995. Tại mỗi bể/ao nuôi, tiến hành thu 1 mẫu nước với tần suất 1 tuần/lần để định lượng vi khuẩn Vibrio tổng số và V. Parahaemolyticus. Mẫu được bảo quản ở nhiệt độ 4°C và chuyển về Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam hoặc Doanh nghiệp uy tín trong ngày để định lượng ngay tiếp sau đó. Tỷ lệ Vibrio tổng số và V. Parahaemolyticus được xác định theo tiêu chuẩn TCVN 8988:2012. Kiểm tra mật độ Vibrio tổng số với vi khuẩn với lợi tuần suất 3 ngày/lần. Nếu kết quả phân tích vi khuẩn Vibrio nhỉnh hơn 1000 cfu/mL thì thay nước 20% mỗi ngày trong 2-3 ngày. Tăng lên liều sử dụng vi sinh Lactobacillus và Bacillus sp. Với liều 200 g/bể/ngày trong 2-3 ngày.
Quản lý sức đề kháng tôm
Theo dõi sức đề kháng tôm 4 lần/ngày. Sử dụng vợt hoặc nhá chuyên dụng để thu mẫu tôm. Quan sát màu sắc của vỏ, ruột, và gan tụy. Tôm khỏe sở hữu tuyến gan tụy màu nâu sáng, kích thước khối gan tụy bình thường. Tuyến gan tụy của tôm yếu có màu sắc nhợt nhạt (màu vàng, màu đỏ, hoặc màu đen), kích thước khối gan tụy theo lại hoặc mềm nhũn. Đường ruột tôm khỏe đầy thức ăn. Dấu hiệu bất thường là ruột tôm đứt đoạn, đặc biệt phần cuối ruột. Màu sắc của phân tôm phản ánh màu sắc của thức ăn công nghiệp, nếu không chứng tỏ tôm ăn tảo hoặc floc.
ĐỊNH LƯỢNG VI KHUẨN VIBRIO TỔNG VÀ V. PARAHAEMOLYTICUS TRONG GAN TỤY TÔM
Mật độ Vibrio tổng số từ gan tụy của tôm cũng được xác định theo TCVN 8988:2012. Mẫu tôm được thu tại sàng ăn với số lượng 15 con/bể hoặc ao/tuần và được chuyển ngay về phòng thí nghiệm. Đối với tôm nhỏ, toàn bộ tôm được nghiền để tương đồng mẫu; đối với tôm to, khối gan tụy được lấy và nghiền trong điều kiện vô khuẩn. Tiến hành lấy 0,1g và pha loãng theo dãy nồng độ để định lượng vi khuẩn. Phương pháp định lượng được tiến hành theo TCVN 8988:2012.
Một vài tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quy trình ương tôm trong nhà là:
- Kiểm soát nhiệt độ: Do bể đặt trong nhà kính cùng với khối hệ thống nâng nhiệt nên sẽ có khả năng kiểm soát nhiệt độ tốt, hạn chế tác động của sự biến đổi nhiệt độ không khí giữa ngày và đêm, gió mùa Đông Bắc, mưa bão. Hoàn toàn có thể thực hiện ương tôm vào bất cứ thời gian nào.
- Khối hệ thống lọc tuần hoàn: Các giá thể hạt vật liệu nhựa làm nơi bám của các vi khuẩn tự dưỡng, chuyển hóa NH4+ thành NO3–.
- Quản lý hệ vi sinh theo chiến lược K: Sử dụng phối hợp chế phẩm EM, vi khuẩn tía, nấm men và Bacillus sp. Ở liều cao làm đa dạng hệ vi sinh trong điều kiện ít đủ chất, hạn chế sự phát triển của Vibrio và làm nước ‘chín’, tăng lên khả năng kiểm soát những khí độc.
- Khối hệ thống UV: Hạn chế lượng Vibrio trước khi nước tuần hoàn lại bể ương
- Công thức cho ăn: Sử dụng cám chất lượng cao nhiều kích thước, kết hợp Artemia bung dù sau bữa ăn thức ăn tổng hợp giúp tôm nhỏ bé có thể đuổi kịp với tôm to, hạn chế độ phân đàn sau giai đoạn ương. Ủ lên men thức ăn với EM, vi khuẩn tía, và nấm men trước lúc cho ăn 12h giúp tăng cường sức khỏe đường ruột và phòng chống nhiễm khuẩn Vibrio gan tụy.
- Khối hệ thống lọc lưới micron: Liên tiếp tách phân và chất rắn lửng lơ ra khỏi khối hệ thống, hạn chế lượng hữu cơ tích tụ liên tiếp.
- Khối hệ thống vi bọt khí: Nâng hàm lượng oxy hòa tan lúc sử dụng khối hệ thống vi bọt khí. Nước sau khi qua khối hệ thống sẽ có hàm lượng DO > 20 ppm.
- Cân bằng các quá trình chuyển hóa nitơ: quang dưỡng, tự dưỡng, và dị dưỡng trong suốt quy trình ương nhờ liên tục bổ sung EM, vi khuẩn tía, nấm men, và Bacillus sp. Vi khuẩn tự dưỡng được duy trì nhờ khối hệ thống lọc sinh học MBBR để hoàn thành quá trình NH4+ -> NO2– -> NO3–. Vi khuẩn Bacillus được sử dụng trong ao dưới dạng vi khuẩn dị dưỡng khi bổ sung mật rỉ đường kính trắng để chóng vánh chuyển hóa NH4+ thành sinh khối floc. Tảo được kiểm soát ở tỷ lệ vừa phải để thực hiện quá trình quang dưỡng NO3– -> sinh khối tảo.